Di tích lịch sử Thủ Khoa Huân

Thủ Khoa Huân tên thật là Nguyễn Hữu Huân (1830), tại làng Tịnh Hà, huyện Kiến Hưng (Chợ Gạo), tỉnh Định Tường (Mỹ Tho). Ông là con Nguyễn Hữu Cẩm – một nông dân khá giả trong vùng – thuở nhỏ ông nổi tiếng thông minh, học rất giỏi. Năm 1852 – dưới triều Tự Đức, ông dự thi hương tại Gia Định đậu thủ khoa. Từ đó có tên Thủ Khoa “Huân”.

Tóm lượt cuộc đời Thủ Khoa Huân

Thực dân Pháp xâm lược nước ta, ông đã từ bỏ chức “giáo thọ” từ biệt gia đình tham gia kháng chiến, liên kết với các sĩ phu yêu nước, chiêu mộ nghĩa binh đứng lên chống giặc, ngược hẳn với chiến lược hoà mà thực chất là đầu hàng của triều đình nhà Nguyễn.

Đầu năm 1862 bị giặc Pháp đánh úp, ông bị giặc bắt giải về Sài Gòn. Pháp giao ông cho Đỗ Hữu Phương ( Tổng Đốc Phương ) – đầu sỏ việt gian mua chuộc, ông từ chối và khôn khéo tìm cách trở lại hoạt động – liên kết với Trương Định .

Tháng 6/1863 giặc phát hiện căn cứ của ông ở Thuộc Nhiêu ( Cai Lậy ) nên bao vây càn quét. ông và Thiên Hộ Dương chạy thoát về An Giang xây dựng căn cứ Bảy Núi. Dựa vào điều ước Nhâm Tuất, Pháp buộc quan tỉnh An Giang giao nộp Thủ Khoa Huân và Thiên Hộ Dương. Biết tin Thiên Hộ Dương trốn thoát, sau đó chuyển căn cứ về Đồng Tháp Mười. Còn Thủ Khoa Huân bị bắt giao nộp cho Pháp. Chúng khép ông vào tội chống lại nhà nước Lang Sa (Pháp), phản đối hiệp ước mà triều đình đã ký, kết án 10 năm khổ sai và đày ra đảo Réunion.

Sau 7 năm tù , chúng ân xá và đưa ông về quản thúc tại nhà Tổng Đốc Phương, đồng thời cử ông làm giáo thọ dạy bảo ” sinh đồ ” ở Chợ Lớn với hy vọng lôi kéo ông về phía chúng. Ông lợi dụng điều kiện đi dạy học liên lạc với các sĩ phu yêu nước và Hội Kín Hoa kiều “Trường Phát” nhờ mua vũ khí chuẩn bị khởi nghĩa. Trong khi cuộc khởi nghĩa đang được chuẩn bị khẩn trương thì bị giặc Pháp nhờ do thám đã bắt được thuyền chở vũ khí. Trước tình hình đó ông ra lệnh bãi binh, trở về Mỹ Tho họp cùng Âu Dương Lân tiến hành khởi nghĩa. Trung tâm ngay vùng Bến Tranh, đã gây tiếng vang toàn cõi Nam Kỳ.

Năm 1875 trong trận giao chiến với giặc thất lợi, ông cùng tùy tùng Đốc binh Hương về Chợ Gạo dự định quá giang thuyền buôn ra Bình Thuận cầu viện. Nhưng Đốc Binh Hương bị Trần Bá Lộc mua chuộc dẫn quân bắt Nguyễn Hữu Huân ở Chợ Gạo ngày 15/05/1875 đem giam tại Mỹ Tho. Sau bốn ngày dùng mọi mưu chước chiêu hàng không thành, chúng kết án tử hình Nguyễn Hữu Huân.

Ngày 19 tháng 5 năm 1875 chúng cho tàu chở ông theo dòng Bảo Định về quê Mỹ Tịnh An để hành quyết (12 giờ trưa). Năm ấy ông 45 tuổi.
Suốt 15 năm hoạt động, ba lần khởi nghĩa – ba lần bị bắt. Trên chiến trường, trong tù ngục và ngay đến khi bị xử trảm luôn nêu tấm gương “Tận trung báo quốc và Đạo cương thường” vì nước vì dân.

Khu di tích Thủ Khoa Huân

Sau khi ông Thủ Khoa mất, để tỏ lòng tôn kính nhân dân địa phương đã lập đền thờ cách nơi ông bị xử trảm 100m. Năm 1995 được sự đồng ý của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Tiền Giang, đền thờ Thủ Khoa Huân được dời về cạnh mộ của ông ở ấp Hòa Quới, xã Hòa Tịnh, huyện Chợ Gạo. Từ đó có tên gọi đền thờ Thủ Khoa Nguyễn Hữu Huân. Và sau đó được phong tặng là di tích lịch sử cấp quốc gia.

Mộ Thủ Khoa Huân thuộc loại hình di tích lịch sử dân tộc. Lúc đầu mộ được lắp bằng đất, đến năm 1927 con cháu của ông và nhân dân địa phương xây lại bằng đá xanh. Mộ gồm 02 phần: núm mộ và bia mộ.

Theo các vị bô lão địa phương, mộ được xây theo kiểu “Voi phục” vì trông giống như con voi đang nằm áp bụng xuống đất. Nền mộ là những viên đá dày 30cm, rộng 40cm, dài 120cm ghép lại với nhau thành nền để đặt núm mộ với diện tích phần nền bằng đá 4,042m2. Núm mộ gồm 2 tảng đá xanh có hình dáng mô hai đầu cao 70cm, phần giữa lõm xuống cong như lưng voi, phía trước có hoa văn khắc ô chữ nhật xoáy vòng, phía sau hoa văn là những vòng gợn và uốn xoáy lại ở cuối đã được ghép bằng xi măng theo chiều dài.

Bia mộ nối liền với núm mộ gồm 3 phần: chân bia, thân bia và mái bia. Chân bia là một khối đá hình chữ nhật có chạm hoa văn hình lá. Thân bia để viết chữ dày 40cm, cao 72cm rộng 100cm. Mái che bằng đá xanh cao 32cm, rộng 38cm. Mái che giả ngói chia làm 8 rãnh, cuối đầu mỗi rãnh có chạm hoa sen, hai đầu chạm 2 con dơi quay mặt ra ngoài tư thế đang bay trông rất sinh động.

Mộ có giá trị lịch sử dân tộc, đây là nơi chôn cất Phó đề đốc, nhà thơ, nhà trí thức yêu nước Thủ Khoa – Nguyễn Hữu Huân. Khu di tích đền thờ Thủ Khoa Nguyễn Hữu Huân với diện diện tích 3.500m2. Hiện nay, tại đây đã thành lập Ban bảo vệ Đền thờ Thủ Khoa Nguyễn Hữu Huân, hằng ngày có người bảo vệ, chăm sóc khu di tích và đón tiếp khách tham quan.

HDV