Chùa Kh Leng là ngôi chùa lịch sử lâu đời nhất Sóc Trăng. Chùa cách trung tâm thành phố Sóc Trăng gần 2 km.
Phương tiện đi đến chùa thuận tiện nhất là đi bằng đường bộ: từ trung tâm thành phố, qua đường Hai Bà Trưng, qua cầu C247, đi thẳng khoảng 500 m phía bên trái là đến chùa. Chùa nằm trên trục lộ chính rất dễ tìm
Địa chỉ: 53 Tôn Đức Thắng, Sóc Trăng
Google Maps: https://maps.app.goo.gl/UC7Ymx89zHNhKVvD7
Lịch sử chùa Kh Leng Sóc Trăng
Vào giữa thế kỷ 16, Vùng Sóc Trăng xưa kia có viên cai quản tên là Tác đã cho xây dựng một nhà kho để tích trữ sản vật do nhân dân đóng góp. Từ đó, ông đặt tên là Sock (Sock là buôn làng) – Khleang (tiếng Khmer có nghĩa là xứ có kho) khi người Kinh đến, gọi trại âm ra là Sóc Kha Lang rồi sau là Sóc Trăng. Sau đó ông Tác vâng lệnh vua Chân Lạp cho xây dựng một ngôi chùa và lấy địa danh đặt tên cho chùa là chùa Kheang. Từ đó đến nay, tên chùa vẫn không thay đổi.
Chùa Khleang cổng chùa quay mặt về hướng đông, là một tổng thể kiến trúc gồm có: chính điện, sa-la (hội trường), nhà của vị đại đức, trụ trì, các tháp để tro cốt người chết, lò thiêu người chết, hội trường… Toàn bộ các công trình diện tích trên 3.800 m2.
Hiện nay, tại chùa Khleang còn lưu trữ một bản sao tài liệu ghi chép từ thư tịch gốc địa danh Sóc Trăng, sự kiện xây dựng ngôi chùa đầu tiên và các nhân vật có liên quan trực tiếp, lịch sử kể rằng:
Vào đầu thế kỉ 16, vua của nước Chân Lạp là Ang Chăn tổ chức một chuyến đi kinh lý qua các lãnh địa xa xôi của mình ở vùng hạ lưu sông Hậu (lúc đó kinh đô đóng tại Lô-véc, thuộc nước Campuchia bấy giờ). Khi nhà vua dừng lại ngự giá ở Sóc Trăng một thời gian mà không thấy có ngôi chùa Phật nào, ngài bèn ra lệnh cho viên quan coi quản đất này phải xây dựng cho được một ngôi chùa để dân chúng có nơi hành đạo.
Năm 1532 ông Tác kêu gọi mọi người và tín đồ trong buôn làng góp công, góp sức xây dựng ngôi chùa mới. Mọi người điều tán thành về các hình thức ông tác vạch ra như lựa chọn địa hình phía bắc cao ráo, ông không chọn ba hướng: Đông, Tây, Nam vì đều là đầm lầy, kinh rạch, rừng hoang có nhiều thú dữ như cọp, voi, trâu rừng, rắn độc…
Công trình xây dựng chùa là người dân và các tín đồ tự nguyện bỏ công sức và vật chất ra xây chùa, trích dẫn ông Tác kêu gọi: “Tôi xin mọi người hãy đem lời kêu gọi của tôi đi vận động thân quyến và dân trong toàn sóc, giải thích cho tất cả được rõ ý nghĩa của việc làm này, hãy vì lòng tin tưởng đức Phật, vì lòng hảo tâm mà đến đây đông đảo để xây dựng nhà chùa. Nhưng mọi người cần lưu ý việc làm này không phải do sự cưỡng ép hoặc hăm doạ, mà vì tấm lòng thành kính với đức Phật mà tự nguyện đóng góp. Dù đóng góp bằng sức lực hoặc của cải vật chất, tinh thần tôi cũng xin mời mọi người hiệp sức xây dựng để lấy phước đức và lòng được thanh thản.”
Một thời gian sau khi ngôi chùa mới hoàn thành, mọi người bầu chọn ông Thạch Sóc 61 tuổi, thọ giới đã 40 năm, lúc đó đang tu tại chùa Luông Bassac (thuộc phạm vi huyện Mỹ Xuyên). Ông Thạch Sóc còn kiêm luôn chức vụ Mê Kôn (chức vụ đứng đầu hội sư sãi của một vùng lúc đó), còn sư phó và các chức vụ khác trong ban trị sự do ông Thạch Sóc chọn.
“Theo các vị sư hiện nay cho biết, ngôi chính điện và sa-la mà chúng ta đang nhìn thấy đã được xây dựng lại hoàn toàn mới vào năm 1918. Theo lời một lão nghệ nhân, trong nhóm thợ xây dựng ngôi chính điện có hai nghệ nhân được rước về từ Campuchia tên là Chao và Clao, ngoài ra không tìm thấy tư liệu nào có liên quan đến việc xây dựng ngôi chính điện từ trước năm 1918”
Ngôi chính điện vào thời điểm từ năm 1918, có chiều dài 24 m, chiều rộng 13 m, được dựng lên trên một nền cao hơn mặt đất gần 2 m, nền gồm có ba bậc: bậc 1 cao 1m, các bậc hai 7m tạo thành vòng sân đường nội bộ (để làm lễ), bậc 2 cao 0,8 m cách nền 3 là 4,5m có dựng hàng rào bao quanh và trang trí hoa văn. Bậc nền 3 là mặt bằng ngoài tráng một lớp xi-măng vôi có trang trí hoa văn theo các hoạ tiết riêng biệt hình cánh sen hoặc các hình khối, tạo thành những đường viền cách vách chính điện 1,50 m thành một vòng hành lang xung quanh chính điện.
Một điểm đặc biệt cho ta thấy là các nhân vật được khắc chạm trên khung cửa chính điện chùa Khleang đều phục sức theo lối Khmer cổ. Trên thân mỗi bộ quần áo người ta thấy chi chít những nét chạm hoa văn. Căn cứ vào bộ trang phục của các nhân vật, ta thấy những hoạ tiết được kết hợp bằng các loại hình học (vuông, tròn, chữ nhật, tam giác, hình thoi…).
Trên mái có các trang trí như là hình vượn, rồng được xếp ở những ranh giới mà mái được nâng lên. Hình tượng rồng của người Khmer khác với người Kinh và Hoa. Đầu rồng mảnh mai, có sừng nhọn, uốn lượn, thân rồng là thân của một loại cá (poo-cor) nên rồng không có chân, trên lưng giương những đao móc nhọn cong về phía đuôi, hình tượng rồng cũng được bố trí theo chiều dài đòn dông, nhưng đây là sự kết thúc của tầng mái có độ cao nhất. Ở đây hình đầu rồng được đơn giản hoá, chỉ còn mang hình dáng và chỉ lấy đặc trưng làm cơ sở để biểu hiện.
Ngoài ra, chung quanh chính điện còn có các tượng khác. Trên tấm đà ngang ở cổng rào bậc nền 2 và dưới chân cột ngôi chính điện có các hình tượng với gương mặt hung dữ như thần Reahu được đắp nổi bằng xi-măng với đôi mắt nổi trợn trừng, nhe răng thè lưỡi, tóc dựng ngược phun ra những trận cuồng phong. Ngoài ra trên đầu hàng rào người ta còn dựng các tượng chằn bằng xi-măng cao khoảng 1,3 m đứng cầm trượng chống đất trong tư thế bảo vệ chính điện và đức Phật, mình mặc giáp trụ gương mặt trông thật hung tợn.
Ngoài và trong chính điện chúng ta còn bắt gặp những mô típ tượng khác: hình chim muông hoa lá, hình tiên nữ đang múa trên bầu trời, nhất là bao quanh phía trong chánh điện có các hình hoạ mô tả về các tích của đức Phật Thích Ca từ lúc sinh ra cho đến khi đắc đạo. Những hình tượng trên góp phần làm sinh động thêm ngôi chính điện trang nghiêm của chùa Khleang.
Hiện nay, trong chùa Khleang có 45 tượng Phật Thích Ca (01 tượng ngồi thiền định cao 2,5 m bằng ciment, 04 tượng bằng đá trắng cao từ 1m đến 1,8 m, 06 tượng đồng cao từ 0,2 m đến 0,4 m, 29 tượng gỗ cao từ 0,2 m đến 0,5 m).
Chùa Khleang mang giá trị lịch sử, nghệ thuật là một công trình kiến trúc thẩm mỹ độc đáo, thể hiện nét đặc trưng trong nghệ thuật truyền thống của người Khmer. Và còn có thêm nét giao thoa của người Hoa và Kinh. Vì thế chùa Khleang được xem là một trong những công trình kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long, và đã được công nhận di tích chùa Khleang là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia vào ngày 27/4/1990.
HDV