Kinh tế Hàn Quốc khởi nghiệp như thế nào?

Sau Chiến tranh Triều Tiên, kinh tế Hàn Quốc nghèo nàn với thu nhập bình quân đầu người ít hơn 100 đô la Mỹ mỗi năm, khi đó được xếp hạng là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới.

Giai đoạn khởi nghiệp của Hàn Quốc

Giai đoạn khốn khổ này, kinh tế Hàn Quốc cơ bản phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài, chủ yếu là từ Mỹ. Viện trợ của Mỹ chiếm gần 80% tổng ngân sách của chính phủ và chiếm một tỉ lệ rất lớn trong tổng sản phẩm quốc gia (GNP) của Hàn Quốc.

Mặc dù một số khu vực của đất nước đã trải qua quá trình công nghiệp hóa từ thời kỳ chiếm đóng của Nhật Bản, nhưng nhìn chung vào đầu thập niên 60 Hàn Quốc vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu và kém phát triển hơn về mọi mặt so với CHDCND Triều Tiên.

Để tạo động lực phát triển kinh tế, Park Chung Hee đã mang “kỷ luật quân đội” và chính sách độc tài áp dụng trên toàn quốc. Một trong những mục tiêu chính của Park là chấm dứt tình trạng nghèo đói ở Hàn Quốc để trở thành một cường quốc kinh tế của thế giới.

Ngay sau khi đảo chính nắm chính quyền vào tháng 7/1961, tướng Park Chung Hee tuyên bố sẽ “dọn rác” làm sạch xã hội. Ông đã từng tuyên bố trước 20.000 sinh viên đại học Seoul:

“Toàn dân Hàn Quốc phải thắt lưng buộc bụng trong vòng 5 năm, phải cắn răng làm việc nếu muốn được sống còn. Nếu làm được vậy, trong vòng 10 năm, chúng ta tạo được một nền kinh tế đứng đầu ở Đông Á, và sau 20 năm, chúng ta sẽ trở thành cường quốc kinh tế trên thế giới… Hôm nay, có thể một số người dân bất đồng ý kiến với tôi, nhưng xin hiểu cho rằng tổ quốc của chúng ta quan trọng hơn quyền lợi cá nhân. Tôi sẽ cương quyết ban hành một chính sách khắc khổ. Tôi sẽ bắn bất cứ kẻ nào ăn cắp của công dù chỉ một đồng. Tôi sẵn lòng chết cho lý tưởng đã đề ra”.

Nói là làm, việc đầu tiên ông làm là đem tử hình 24 quan chức và doanh nhân vì tội tham nhũng. Đây là giải pháp hành lang là tiền đề cho các giải pháp kinh tế phát triển bên dưới:

1. Thiết quân luật vào quan điểm làm việc và đời sống:

– Mọi người đều phải làm việc hết sức mình, ai làm không chăm sẽ bị phê bình, mắng nhiếc trước mặt mọi người, thậm chí sẽ bị bạt tai làm gương.
– Một số ngành do quân đội xây dựng, khi người lính làm việc không chăm, cấp trên có quyền trừng phạt bằng đòn roi.
– Những du học sinh trước khi ra nước ngoài học tập phải cam kết không ở lại nước ngoài mà phải về nước phục vụ dù muốn hay không, những ai đã học xong mà không quay về nước thì gia đình họ sẽ phải chịu những hình phạt nặng.

2. Định hướng phát triển kinh tế tăng cường xuất khẩu

+ Kế hoặc 5 năm từ 1962 – 1966:

Tham khảo kế hoạch 5 năm của Liên Xô

  • Ông Park thành lập một Ủy ban Kế hoạch Kinh tế (EPB) để điều hành nền kinh tế đất nước.
  • Nhiệm vụ chủ chốt của Kế hoạch năm năm đầu tiên là tập trung phát triển các ngành công nghiệp nhẹ nhằm mục đích xuất khẩu.
  • Ông tuyên bố thành phố Ulsan là một “khu vực phát triển công nghiệp đặc biệt” của đất nước. Hyundai đã tận dụng vị thế đặc biệt của Ulsan để biến thành phố này thành nơi đặt các nhà máy chính của nhà tài phiệt (chaebol).
  • Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, tăng trưởng của kinh tế Hàn Quốc đạt tới 7,6%, trong đó sản lượng xuất khẩu tăng trên 30% mỗi năm, sản lượng sản xuất tăng trên 15% mỗi năm. Vì các chính sách phát triển kinh tế của Park được thúc đẩy bởi chủ nghĩa dân tộc và mong muốn giành quyền tự chủ cho đất nước của mình, do đó Park chủ trương không để cho nền kinh tế của Hàn Quốc bị phụ thuộc và chi phối bởi nước ngoài.

+ Kế hoạch 05 năm lần thứ hai (1967-1971):

thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và cải thiện cơ sở hạ tầng trong nước.

  • Vào năm 1972, Park tuyên bố thiết quân luật và ban hành một hiến pháp mới mang lại cho ông ta quyền lực gần như một nhà độc tài. Sử dụng quyền lực của mình, Park đã chuyển hướng nền kinh tế của đất nước sang tập trung vào phát triển các ngành công nghiệp nặng và hóa chất.
  • Từ năm 1973, nền kinh tế Hàn Quốc đặt trọng tâm chủ yếu vào 6 ngành: thép, hóa chất, luyện kim, chế tạo máy, đóng tàu và điện tử. Giai đoạn phát triển công nghiệp này tập trung tại các thành phố nhỏ nằm ở phía đông nam của đất nước.
  • Kế hoạch phát triển kinh tế của Park Chung Hee dựa vào xuất khẩu nhờ giá thành thấp. Chi phí sản xuất được cố tình hạ thấp đến mức tối thiểu bằng cách toàn dân phải cam chịu gian khổ, tiêu dùng hết sức tiết kiệm. Để người lao động có thể sống với mức lương rất thấp, chính quyền đã áp dụng biện pháp giữ giá những sản phẩm nông nghiệp ở mức rất thấp.
  • Cuối thập niên 70, công nghiệp Hàn Quốc đã sản xuất được máy thu hình màu, nhưng chỉ để xuất khẩu, trong nước chỉ dùng TV trắng đen. Các sản phẩm xa xỉ như mỹ phẩm, xe hơi cao cấp, quần áo thời trang… bị hạn chế nhập khẩu ở mức tối đa.

Quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng của Hàn Quốc cũng phải trả giá bằng sự hy sinh rất lớn của tầng lớp lao động. Quyền của người lao động bị hạn chế tối đa vì từ năm 1962, chính sách toàn quốc thắt lưng buộc bụng được áp dụng từ Tổng thống đến dân chúng. Người dân làm việc nặng nhọc và triền miên, nhưng sống rất kham khổ. Hàng tuần mỗi người dân đều phải nhịn ăn một bữa, không hút thuốc lá ngoại nhập, không uống cà phê. Thời gian lao động kéo dài đến 12-14 tiếng mỗi ngày. Điều kiện lao động kém, tiền lương rất thấp. Những phản kháng tự phát của công nhân, nông dân hoặc của dân nghèo thành thị đòi hỏi cải thiện điều kiện sống đều bị chính quyền Park Chung Hee đàn áp không thương tiếc.

Nhà báo Michael Schuman của Time (Mỹ) về sau nhận định: “Chế độ Park Chung Hee đã thực hiện quyền kiểm soát nhà nước đối với nền kinh tế một cách tàn bạo vượt xa cả con quỷ Sahashi”.

3. Thu hút đầu tư nước ngoài chính sách ưu đãi

Ban đầu ông Park đã ra sức hạn chế đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Hàn Quốc. Tuy nhiên, theo lời khuyên của các nhà kinh tế, ông bắt đầu dần dần nới lỏng những hạn chế này.

Năm 1966, ông đã ra chính sách mới kích thích vốn đầu tư nước ngoài bằng cách những ưu đãi về thuế cho các nhà đầu tư nước ngoài và hợp lý hóa quy trình đầu tư vào Hàn Quốc.

4. Nhận viện trợ từ Mỹ và cho thuê lính đánh thuê

Hàn Quốc đã từng cử khoảng 320.000 quân nhân sang tham chiến cùng Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam để đổi lấy những khoản viện trợ từ Mỹ. Theo thống kê khoảng hơn 5.000 lính Hàn Quốc đã chết và khoảng 11.000 lính khác bị thương tật nặng trong cuộc chiến này.

Lợi ích từ việc cho thuê là chính phủ Hoa Kỳ đã tài trợ mọi khoản chiến phí và trả tiền lương cho lính Hàn Quốc. Tổng cộng Mỹ đã viện trợ hoặc cho Hàn Quốc vay khoảng 10 tỷ USD (tương đương 70 tỷ USD theo thời giá 2017) từ năm 1946 tới năm 1978.

Một số học giả cho rằng: việc cho thuê lính đánh thuê và nhận viện trợ từ Mỹ đã chiếm 40% thu nhập ngoại hối của Hàn Quốc, chiếm từ 7-8% GDP của Hàn Quốc trong những năm 1966-1969.

Số tiền đánh thuê được chuyển thẳng cho chính phủ Hàn Quốc dưới hình thức “bán công khai” như trợ cấp phát triển quốc phòng, hợp đồng dân sự, chuyển giao công nghệ và ưu đãi thị trường bởi các tổng thống Johnson và Nixon

Nhờ đó mà, chỉ trong 10 năm từ 1964 tới 1974, GNP bình quân của Hàn Quốc đã tăng hơn 5 lần (từ 103 USD lên 541 USD). Rất nhiều máu đã đổ khi lính Hàn Quốc đã đổ ra và nhiều ý kiến khẳng định rằng những tổn thất sinh mạng đó đã góp phần không nhỏ cho sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc.

5. Ngoại giao và hợp tác kinh tế với Nhật Bản và Hoa Kỳ

Ngoài nhận viện trợ, các công ty kinh doanh tại Hàn Quốc còn nhờ Hoa Kỳ kết nối các hợp đồng dự án béo bở tại Việt Nam và các nước trung đông.

Nhật Bản cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế thần kỳ của Hàn Quốc. Park đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Nhật Bản vào năm 1965, một động thái gặp phải sự phản đối gay gắt của người dân Hàn Quốc. Lao động giá rẻ ở trong nước kết hợp với vốn và công nghệ của Nhật Bản đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa của Hàn Quốc.

Sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, Nhật Bản đã trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ hai ở Hàn Quốc, chỉ đứng sau Hoa Kỳ. Trong vòng 10 năm, kinh tế thương mại giữa hai nước đã mở rộng hơn gấp mười lần.

Từ năm 1962 đến 1979, 60% công nghệ từ nước ngoài của Hàn Quốc là do Nhật Bản cung cấp

Thị trường Mỹ cùng với các khoản đầu tư và chuyển giao công nghệ của Nhật Bản đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyển biến thần kỳ của nền kinh tế Hàn Quốc.

Kinh tế Nhật Bản cũng là một mô hình hoàn hảo để Hàn Quốc noi theo trong công cuộc phát triển kinh tế. Trong thời kỳ thuộc địa và kể cả sau khi giành được độc lập, người Hàn Quốc đã học hỏi được rất nhiều điều từ người Nhật về những gì mà một quốc gia không thuộc phương Tây có thể làm để công nghiệp hóa và hiện đại hóa thành công.

Một người Hàn Quốc đã mô tả chính sách của cộng đồng doanh nghiệp nước này là “Làm hệt như những gì người Nhật đã làm, nhưng làm điều đó một cách nhanh hơn, hiệu quả và ít tốn kém hơn”

Park Chung Hee cho rằng, Hàn Quốc cần phải phát triển kinh tế vững mạnh trước khi có thể có dân chủ: “Người châu Á sợ hãi đói nghèo hơn là sợ độc tài. Các dân tộc châu Á muốn có bình đẳng kinh tế trước rồi sau đó mới xây dựng cơ chế chính trị công bằng hơn… và viên ngọc chẳng có gì rực rỡ được gọi là chế độ dân chủ là vô nghĩa đối với những người đói khát và tuyệt vọng”. Bằng lý lẽ này, Park Chung Hee sử dụng hệ thống cảnh sát mật để theo dõi và dẹp tan mọi hành vi chống lại ông. Tất cả mọi cá nhân có phát ngôn chống Chính phủ, mọi cuộc biểu tình đòi tăng lương đều bị trấn áp thẳng tay. Park Chung Hee sử dụng luật an ninh chống cộng để bỏ tù và tra tấn bất cứ ai bất đồng chính kiến. Các cuộc biểu tình, hệ thống báo chí và phát ngôn nói chung đều bị kiểm duyệt hà khắc. Các sĩ quan cảnh sát mang thước và chặn thanh niên trên phố để đo tóc và váy của họ. Chính quyền rất thô bạo nếu thanh niên để tóc dài, phụ nữ mặc váy ngắn. Gián điệp, chỉ điểm có mặt khắp mọi nơi, giám sát đến cả trường học. Những người bất đồng chính kiến khó thoát khỏi bị bắt và mòn mỏi ở trong tù.

Nếu một người bị quy là người cộng sản, người đó sẽ mất hết mọi quyền tồn tại trong xã hội. Quy kết sự phê phán nhằm vào một chính sách nào đó của chính phủ là “cộng sản chủ nghĩa” là phương cách ưa thích và hiệu quả. Khi một nhà hoạt động xã hội bị bắt, người đó sẽ bị tra tấn dã man để phải thú nhận mình là người cộng sản. Cho đến nay, không một chính trị gia Hàn Quốc nào có thể dám làm như ông Park Chung Hee.

Chế độ độc tài quân sự của Park Chung Hee mang tính chất chuyên chế độc đoán, phản dân chủ mạnh mẽ, nhưng cũng không thể phủ nhận những mặt tích cực của chế độ chính trị này đối với việc định hướng diện mạo nền kinh tế và xã hội Hàn Quốc ngày nay.

6. Dùng Nho Giáo vào giáo dục và tinh thần dân tộc

Bên cạnh các biện pháp chính trị, Park Chung Hee sử dụng các yếu tổ văn hóa Nho giáo để thúc đẩy phát triển đất nước.

Ông sử dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo: Trung (trung thành) và Hiếu (hiếu thảo) là giá trị quan xuyên suốt nhiều thế kỷ ở Hàn Quốc. Đã xảy ra nhiều cuộc tranh luận nóng bỏng giữa các học giả Hàn Quốc về tính hữu dụng của truyền thống, của yếu tố tích cực trong Nho giáo mà kết quả cuối cùng là Park Chung Hee đã đi đến quyết định: Giá trị quan của Nho giáo về “Trung” và “Hiếu” được ông ra chỉ thị tiếp tục dạy trong nhà trường và truyền bá sâu rộng trong đời sống nhân dân.

Sự tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này đã cải thiện đáng kể mức sống cho người dân Hàn Quốc. Cuối năm 1965, khoảng 58,7% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, nhưng tỷ lệ này đã giảm xuống còn 50,4% vào năm 1970 và 38,4% vào năm 1978. Công nghiệp hóa dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng dân số đô thị của Hàn Quốc, tăng từ 28,3% tổng số năm 1960 lên 54,9% vào năm 1979. Năm 1960, khoảng một phần ba trẻ em từ 12 đến 14 tuổi theo học tại các trường trung học; tỷ lệ đó tăng lên 53,3% vào năm 1970 và 74,0% vào năm 1975.

Năm 1960, chỉ có khoảng 19,9% dân số từ 15 đến 17 tuổi đi học; tỷ lệ đó tăng lên 29,3% vào năm 1970 và 40,5% vào năm 1975 . Năm 1970, quá trình xây dựng tuyến đường cao tốc Gyeongbu đã được hoàn thành, liên kết Seoul với khu vực phía đông nam của quốc gia và các thành phố cảng như Incheon và Busan. Vào năm 1969, cả nước chỉ có 200.000 máy truyền hình, đến năm 1979 đã có sáu triệu máy truyền hình [43]. Nếu như vào năm 1969, chỉ có 6% hộ gia đình ở Hàn Quốc sở hữu một chiếc tivi; thì đến năm 1979, đã có 4/5 hộ gia đình Hàn Quốc sở hữu TV.

Nhờ những biện pháp cứng rắn về chính trị, khắc khổ về kinh tế cũng như sử dụng yếu tố văn hóa, từ thập niên 1960, kinh tế Hàn Quốc phát triển với tốc độ rất nhanh. Vào ngày 26 tháng 10 năm 1979, Tổng thống Park Chung Hee bị ám sát. Một thời kỳ hỗn loạn chính trị tiếp diễn, cộng với sự tăng vọt của giá dầu trong năm 1979, một vụ thu hoạch lúa thất bát và tỷ lệ lạm phát đáng báo động là 44%, khiến cho nền kinh tế Hàn Quốc phải chịu mức suy thoái lên tới 6% trong năm 1980. Nhưng nền kinh tế đã nhanh chóng phục hồi. Thập niên 1980 chứng kiến tốc độ tăng trưởng GDP cao, đạt đỉnh điểm vào những năm 1986-1988 ở mức 12% mỗi năm, nền kinh tế Hàn Quốc trở thành nền kinh tế đạt mức tăng trưởng cao nhất thế giới thời điểm đó. Hàn Quốc được xếp vào một trong những nước công nghiệp hóa mới (NICs) của thế giới. Những năm sau đó, tốc độ tăng trưởng chậm lại, nhưng nền kinh tế Hàn Quốc tiếp tục tăng trưởng nhanh cho đến năm 1996 với tốc độ tăng trưởng trung bình là hơn 7% mỗi năm [44].

Năm 2004 GDP của Hàn Quốc là 680 tỉ USD (Đô la Mỹ), đứng thứ 12 trên thế giới. Thành công trong phát triển kinh tế của Hàn Quốc được gọi là “Kỳ tích”

Từ 1998 đến 2007, Hàn Quốc đã có những tiến bộ trong tiến trình dân chủ hoá, song đôi khi vẫn trượt theo hướng độc tài. Đã có rất nhiều tổ chức phi chính phủ giả hiệu (pseudo-NGOs) hoạt động theo mệnh lệnh của chính quyền, nhiều nhóm cánh hữu, nhiều tổ chức hiện “vẫn tìm cách bảo vệ những quyền ưu tiên mà họ có được từ thời của chế độ độc tài”. Người Hàn Quốc vẫn còn ảnh hưởng của quá khứ, đến hiện nay phải gánh chịu rất nhiều áp lực trong cuộc sống, nhất là về công việc và học tập.

Seoul ngày nay
Seoul ngày nay

DMZ