Tóm tắt đạo Hindu – Ấn Độ Giáo

Đạo Hindu còn gọi là Ấn Độ giáo, Hindu giáo là sự tiếp nối từ Veda giáo và Bà La Môn giáo, song theo khuynh hướng dân tộc hóa vì 80% người Ấn Độ theo đạo Hindu

Veda giáo -> Bà La Môn giáo -> Hindu giáo

Ấn Độ giáo được xem là tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới. Ấn Độ giáo còn là tôn giáo lớn thứ ba thế giới, những người theo đạo Hindu Ấn Độ, được gọi là người Ấn giáo, chiếm khoảng 1,2 tỷ, tương đương 15-16% dân số trên toàn cầu.

Giáo lý của Ấn Độ giáo là giải thích về hoạt động của vũ trụ, vì thế nó thu hút nhiều tín đồ rộng rãi nhiều nhất tại các khu vực: Ấn Độ, Nepal và Mauritius và ở Bali – Indonesia và các khu vực khác.

Phân đoạn lịch sử hình thành phát triển của đạo Hindu Ấn độ được chia làm 3 giai đoạn với ba tên gọi là: Veda giáo -> Bà La Môn giáo -> Hindu giáo. Cách phân chia này làm rõ được sự tiếp nối, cách tân và đổi tên của cùng một tôn giáo theo các giai đoạn do những mục đích thần quyền hóa, giai cấp hóa, hay dân tộc hóa trong mỗi giai đoạn:

Giai đoạn Veda giáo (Vedism): khoảng 1500 năm – 500 năm TCN

Mô tả kinh Veda
Mô tả kinh Veda

Veda giáo là tôn giáo khởi nguyên của tộc người Dravidian ở miền nam Ấn Độ, là một cội nguồn văn hóa văn minh của Ấn Độ. Mình tạm cho là tôn giáo cổ nhất của loài người vì thời đó Kinh Veda là tổng hợp các văn bản cổ thiêng liêng.

Veda giáo là tập hợp niềm tin tôn giáo đa thần và thờ cúng thiên nhiên bao gồm nhiều tín ngưỡng, có nghi lễ, có bùa chú, do các truyền thuyết của thổ dân da đen Dravidian ở bán đảo Ấn Độ, phối hợp với các tín ngưỡng của dân tộc da trắng từ phương Tây Bắc đến xâm lấn (nhất là dân da trắng Aryan tràn vào phía bắc Ấn Độ)

Kinh Vệ Đà (nghĩa là thông hiểu) ghi chép các giáo thuyết như là: các lời cầu nguyện, các nghi thức tôn giáo, triết học, các bài hát và các câu chuyện cổ xưa (thần thoại)

Điểm nổi bật trong kinh Vệ Đa được viết bằng tiếng Phạn của người Aryan, gồm 4 tập là khoảng 1.028 các bài thánh ca và 10.600 câu thơ được sắp xếp thành 10 tập (Mandalas), nội dung là ngợi ca các thần, thể hiện khát vọng tâm linh, song đó cũng chính là những tri thức đầu tiên của người Ấn Độ cổ về tự nhiên và xã hội qua ngôn ngữ tâm linh, được tin là do thiên khải hay mặc khải bởi thần thánh chứ không phải do con người sáng tạo ra.

Toàn bộ kinh sách thần thánh của Veda giáo gần như đã được bảo tồn và tiếp tục phát triển trong các giai đoạn sau Bàlamôn giáo và Hindu giáo

Giai đoạn Bà la môn giáo (Brahmanism): khoảng 800 năm TCN

Bà la môn giáo được hình thành trên cơ sở Veda giáo khoảng 800 năm TCN, tức là một thời gian không xa lắm trước khi Đức Phật Thích Ca hình thành Phật giáo ở Ấn Độ

Bà la môn giáo đưa ra những kinh sách để giải thích và bình luận Kinh Vệ Đà như: Kinh Brahmana, Kinh Upanishad, Giải thích về Maya (tức là Thế giới ảo ảnh) và về Niết bàn.

Tín đồ của Bà la môn giáo chủ yếu là những người gốc Aryan sống bán du mục ở phía Bắc du nhập nhiều đợt vào miền Tây và Tây bắc Ấn Độ trong khoảng thời gian dài 1700 – 1200 TCN.

Bà la môn giáo phát triển theo khuynh hướng nhất thần và thờ Đấng Brahma là Đấng tối cao tối linh, là linh hồn của vũ trụ.

Giáo lý Bà la môn được cụ thể hóa thành 10 điều răn về chuẩn mực đạo đức: không sát sinh; không nói dối; không trộm cắp; biết kiềm chế dục vọng và ham muốn; không tham lam; sạch sẽ, tinh khiết; biết bằng lòng; kỷ luật với bản thân; phải học tập; vâng phục mệnh trời.

Kinh điển trong giai đoạn Bà la môn giáo vẫn là kinh Veda, song có phát triển nhiều hơn về thần học và triết học. Kinh Veda được truyền miệng qua nhiều đời và được hoàn thiện hơn.

Kinh điển Bà la môn giáo là hệ thống lý luận đầu tiên chứng minh cho sự hợp lý của tình trạng bất bình đẳng giai cấp bằng mô hình xã hội thần quyền, mà trong đó giới Bàlamôn được coi là đẳng cấp thần thánh, có vị trí cao nhất trong xã hội.

Sự phân chia giai cấp xã hội. Bà la môn giáo phân chia xã hội Ấn Độ làm 5 giai cấp. Ai sinh ra trong giai cấp nào thì phải ở mãi trong giai cấp đó suốt đời.

  • Giai cấp cao nhất là các Tăng lữ Bà la môn: sinh ra từ miệng Phạm Thiên là đẳng cấp thần thánh
  • Giai cấp thứ nhì là Sát Đế Lị: sinh từ cánh tay của Phạm Thiên là hàng vua chúa, quý tộc
  • Giai cấp thứ ba là Vệ Xá: sinh ra từ bắp đùi của Phạm Thiên gồm các nhà thương mại, các trại chủ giàu có nên đảm đương về kinh tế, sản xuất
  • Giai cấp thứ tư là Thủ Đà La: sinh từ gót chân của Phạm Thiên, nông dân và công nhân nghèo khổ nên đời đời kiếp kiếp làm nô lệ cho các giai cấp trên
  • Giai cấp thứ năm là Chiên Đà La: là con lai của đẳng cấp thứ tư với các đẳng cấp trên, là giai cấp thấp kém nhất trong xã hội Ấn Độ, gồm các người làm các nghề như: Ở đợ, làm mướn, chèo ghe, giết súc vật, bị các đẳng cấp khác đối xử như thú vật, vô cùng khổ nhục.

Giai đoạn Hindu giáo (Hinduism)

Trimurti nhìn vào hình từ bên trái hình: Vishnu -> Shiva (da xanh) -> Brahma (4 đầu)
Trimurti nhìn vào hình từ bên trái hình: Vishnu -> Shiva (da xanh) -> Brahma (4 đầu)

Tóm tắt lịch sử đạo Hindu Ấn Độ Giáo:

Đạo Hindu có từ rất sớm, được xem như một tôn giáo sớm nhất của nhân loại, đạo xuất hiện trên trái đất khoảng từ 2300 – 1500 trước công nguyên. Nhưng mãi đến khoảng thế kỷ 6 – 7 thì mới bắt đầu hình thành rõ nét về tôn giáo này vì phải trải qua 2 giai đoạn trước đó, Hindu giáo được hình thành ở giai đoạn 3 này cũng là thời điểm Phật giáo bắt đầu suy tàn tại Ấn Độ, và phát triển đến nay.

Hindu giáo là sự tiếp nối từ Veda giáo và Bàlamôn giáo, ở giai đoạn này, không còn quan điểm 1 thần Brahma mà cho rằng Brahma là 1 trong 3 vị thần cùng hợp thể:

Ba vị thần “Tam vị nhất thể” trong đạo Hindu Ấn Độ còn gọi là Trimurti

  • Thần Brahma là Đấng Sáng tạo
  • Thần Vishnu là Đấng Bảo tồn
  • Thần Shiva là Đấng hủy diệt

Ngày nay, ở Ấn Độ chỉ có duy nhất còn một đền thờ dành riêng thờ Brahma (Phạm Thiên). Ngoài ra, Hindu giao hay Ấn Độ giáo còn thờ các vị Thần thuở xưa khác như: Thần Sấm Indra, Thần Mặt Trời Surya, Thần lửa Agni, Thần gió Vayu, Thần không trung Varuna.

Ấn Độ giáo vẫn giữ sự phân chia giai cấp của xã hội giống như Bàlamôn. Ấn Độ giáo phân thành nhiều chi phái, chủ yếu có 2 phái lớn là Vishnu và Shiva, đồng thời nuôi dưỡng nhiều môn phái triết học mà nổi tiếng nhất là 2 môn phái: Védanta và Yoga.

Các quan điểm của Hindu giáo:

Về thiết chế tôn giáo – xã hội:

Hindu giáo tiếp tục duy trì sự phân chia xã hội thành 4 đẳng cấp, song không còn gay gắt mang tính thần quyền như thời kỳ Bà la môn giáo.

Về kinh sách:

Hindu giáo là sự kế thừa liên tục từ kinh sách của Veda giáo và Bàlamôn giáo. Kinh điển Hindu giáo vẫn gồm Veda-Upanishad, và có thêm các bộ luận Sastra

Về giáo lý:

Hindu giáo cho rằng mọi người đều bị ràng buộc bởi luân hồi do tác động theo luật nhân – quả mà khởi đầu là do dục vọng dẫn dắt. Cách duy nhất để thoát khỏi chu kỳ này con người có thể tu luyện theo phép Yoga huyền bí, theo đuổi con đường tu khổ hạnh từ bỏ thế giới và đạt tới giải thoát.

Về biểu tượng thờ cúng:

Hindu giáo tiếp tục xu hướng thờ đa thần với các thần linh truyền thống, cùng nhiều vị thần trong tín ngưỡng dân gian

Về biểu tượng thần:

Hindu giáo có bổ sung và điều chỉnh khá nhiều nhưng có hệ thống hơn. Tuy vẫn thờ 3 vị thần Tam vị nhất thể, tuy nhiên các vị thần được bổ sung thêm và trật tự các thần cũng có chút đảo lộn. Thần Brahma có phần bị hạ thấp hơn nhưng thần Vishnu lại được đề cao hơn.

Ngoài ra, Hindu giáo cũng đã thêm nhiều quy định về chuẩn mực, hình phạt, lễ hội, nghi thức tế lễ tỉ mỉ hơn.

Tóm lại, đạo Hindu Ấn Độ hay Ấn Độ giáo là sự chấn hưng – tiếp thu gốc của Bàlamôn giáo cộng thêm tiếp thu Phật giáo. Chính vì thế, đạo Hindu thu hút cả tín đồ Phật Giáo và liên tục củng cố sức mạnh tín ngưỡng tôn giáo và khắc phục những yếu tố không đúng để trở thành một tôn giáo mạnh nhất ở Ấn Độ.